Đối với kiến trúc thời Lê, nổi bật nhất vẫn là các công trình Tôn Giáo được xây dựng rất mạnh mẽ với những công trình tiêu biểu như là: chùa Keo, chùa Chuông, chùa Bút Tháp,…Lê Trịnh hay Lê Trung Hưng là thời kỳ phong kiến duy nhất ở tại Việt Nam vừa có vua, vừa có chúa. Chúa Trịnh nắm được thực quyền, là thời kỳ mà công trình kiến trúc tôn giao được xây dựng phát triển. Hãy cũng đọc bài viết dưới của Kiến Trúc Lâu Đài Cổ Điển Europa để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này nhé !
Chùa Keo
Chùa Keo (tên chữ: Thần Quang Tự) chính là một ngôi chùa ở ngay xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Đây chính là một trong các ngôi chùa cổ ở tại Việt Nam được bảo tồn hầu như là còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.
Văn bia và địa bạ ở tại Chùa Keo còn ghi nhận lại diện tích của toàn khu kiến trúc chùa rộng tầm khoảng 58.000 m2, bao gồm nhiều các ngôi nhà làm thành những cũm kiến trúc khác nhau. Hiện nay thì toàn bộ kiến trúc còn lại 17 công trình sẽ gồm 128 gian được xây theo kiểu “Nội công ngoại quốc”.
Ở từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tấp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ se, tam quan nội với bộ cánh cửa, cao 2m, rộng là 2.6m, chạm một ố rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu như đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê. Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.
Chùa ngoài việc thờ Phật, còn thờ Không Lộ – Lý Quốc Sư. Toàn bộ công trình sẽ đều được làm bằng gỗ lim và là nơi đã được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc trông rất tinh xảo.
Chùa Chuông
Chùa Chuông sẽ có tên chữ là Kim Chung Tự nằm ở tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Chùa Chuông được nằm trong quần thể di tích Phố Hiến và đã được mệnh danh là “Phố Hiến đệ nhất danh thắng”.
Chùa Chuông đã được xây dựng từ thời kỳ Hâu Lê (thế kỷ XV) và đã trải qua một cuộc trùng tu rất lớn vào năm 1707 tạo nên chùa hoàn chỉnh như là ngày nay. Năm 1992, chùa Chuông còn được Bộ Văn Hóa – Thông tin xếp hang là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Chùa Bút Tháp
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) được tọa lạc tại bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, thuộc Huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi đó là chùa Nhạn Tháp. Trong chùa có tượng Bồ Tát Quan Thế Âm thiên phủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam. Đây cũng chính là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hang đợt 4.
Đây sẽ chính là một trong không nhiều ở các ngôi chùa cổ, có quy mô kiến trúc lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại cho đến ngày nay. Chùa sẽ có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa giữa kiến trúc và với môi trường thiên nhiên. Toàn bộ các kiến trúc chính của chùa được quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với Đạo Phật thì hướng Nam sẽ là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Chùa Nành
Chùa Nành sẽ còn có tên gọi là Chùa Pháp Vân hay tên dân dã là chùa Cả, thuộc làng Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa Nành sẽ còn có cái danh đó là “Bắc Giang đệ nhất thiền môn”.
Chùa sẽ là một trong bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp và loại lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam (Pháp Vân, Pháp Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) ở miền Bắc Việt Nam gồm: chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đâu (Hà Nội) và chùa Nành.
Chùa đã được dựng theo lối chữ “Công” gồm 100 gian, trước mặt sẽ có sân rộng dài, đối diện có thủy đình để diễn rối nước. Chùa đã được xây dựng vào thời nhà Lý. Quy mô của Chùa sẽ là khá lớn, bao gồm: thủy đình, tam quan, tiền đường, cầu, tam bảo, tả vu, hữu vu, nhà Tổ, điện Mẫu và khu phụ.
Chùa Đậu
Chùa Đậu (tên chữ: Thành Đạo tự) sẽ là một ngôi chùa ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Vì chùa thờ Bà Đậu hay là nữ thần Pháp Vũ nên chùa đã được gọi là chùa Đậu và còn có tên là Pháp Vũ tự.
Theo như văn bia tu tạo dựng vào năm Dương Hòa đời thứ 5 thì ngôi chùa này sẽ được tôn tạo vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ 11. Ngoài ra thì trong chùa còn có nhiều các viên gạch lớn ở thời nhà Mạc và một số các bia có niên hiệu Sùng Khang (1566 – 1577).
Cũng theo tấm bia trên, có một lần trùng tu lớn ở vào năm 1635 đời của vua Lê Thần Tông. Chùa được xâ dựng kiểu “nội công ngoại quốc”. Tam quan chùa sẽ là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ đã được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá.