Đặc trưng kiến trúc thời Nguyễn đặc biệt là thành ở ngoài (phòng thành), chính là kiểu kiến trúc phòng thủ Vauban2. Ở Việt Nam, thành đầu tiên mà được xây dựng theo kiểu Vauban chính là thành Sài Gòn (xây vào năm 1790 bởi Nguyễn Ánh – Vua Gia Long). Sau khi đã được thống nhất đất nước, các đời vua của nhà Nguyễn đều được xây dựng thành, đồn theo kiến trúc Vauban. Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây của Kiến Trúc Lâu Đài Cổ Điển Europa để khám phá xem các nghệ thuật kiến trúc thời nhà Nguyễn!
Kinh thành Huế
– Sẽ bao gồm 3 phần: Phòng Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Kinh thành xây dựng trong 30 năm (1803-1832), thành có 10 cửa chính để ra vào.
– Kinh thành sẽ nằm bên bờ sông Hương chính là một quần thể kiến trúc thật rộng lớn cũng như đẹp nhất nước ta thời bấy giờ.
– Năm 1802 hoàng đế gia long bắt đầu xây dựng Hoàng Thành và Tử Cẩm Thành, năm 1805 mới khởi công hoàng thành, tổng quy mô diện tích cực kỳ lớn 520 ha, chu vi 10km . Nổi bật sử dụng lối kiến trúc phòng ngự Vauban của Pháp. Phòng thành Huế tạo những đường zích zắc, gồm những hệ thống : lũy, pháo đài, giác bảo, đoạn thành nối hai pháo đài, tường bắn , phản pháo, phòng lô, hào, thành giai … Đây chính là một loại thành trì được dùng cho ở nhiều vùng miền cộng hòa Pháp và các quốc gia lân cận. Lúc tạo nên kinh thành, 8 làng phải dời đi và hai đoạn nhánh con sông Hương là Bạch Yến và Kim Long đã bị lấp . Vòng thành có 10 cửa lớn đường bộ , hai đường thủy và kỳ đài , thành cao 6, 6m ; rộng 21m xây gạch bề mặt vững chãi, có dãy hào sâu là hộ thành hà. Trong hoàng thành còn có những công trình : lục bộ , nha viện, quốc tử giám, quốc sử quán . Nhiều kiến trúc hồ an tĩnh, khâm thiên giám, trấn bình đài, tàng thơ lâu, kỳ đài …
Khởi công xây dựng năm 1805, kinh thành Huế được quy hoạch bên bờ bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha có 10 cửa chính gồm:
Bắt đầu khởi công xây dựng là vào năm 1805, kinh thành Huế được quy hoạch ở bên bờ bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng sẽ là 520 ha có 10 cửa chính bao gồm là :
– Cửa Tây Nam bên phải kinh thành);
– Cửa chính Nam (còn gọi cửa nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố, nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long);
– Cửa Quảng Đức;
– Cửa Thể Nhơn (tức cửa ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông);
– Cửa Đông Nam (còn gọi là cửa thượng tứ, do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa);
– Cửa chính Bắc (còn gọi là cửa hậu, nằm ở mặt sau kinh thành);
– Cửa Tây Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây);
– Cửa chính Tây;
– Cửa chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư này);
– Cửa Đông Bắc (còn có tên cửa Kẻ Trài);
Không những thế hoàng thành còn có một cửa thông với trấn bình đài ( thành phụ ở góc đông bắc của hoàng thành, còn có tên gọi là thành mang cá ) được gọi là trấn bình môn .
Hai cửa bằng đường thủy thông hoàng thành với ngoài qua chuỗi ngự hà là đông thành thủy quan và tây thành thủy quan.
1.Hoàng Thành
Toàn cảnh Hoàng Thành hầu như hình vuông, mỗi cạnh 606m. Trong dự án hơi lệch về phía Nam kinh thành, có một cửa chính Ngọ Môn ( Nam ) , Hòa Bình ( Bắc ) , Hiển Nhơn ( Đông ) và Chương Đức ( Tây ) . theo trục dũng đạo, từ cửa ngọ môn vào điện thái hòa là địa điểm thiết thiết đại triều nghi và tiếp sứ thần, có hàng chục cầu , hồ liên tục và những phương ngôn bằng đồng tráng lệ hoa lệ. Địa điểm thờ tự tổ tông có : triệu miếu, thái miếu, hưng miếu, thế miếu, điện phụng tiên, ngai vàng và các cung diên thọ ( các bà mẹ ông hoàng ở ). Cung trường sanh ( các bà nội ông hoàng ở ) các kho tàng, vườn thượng uyển … Ngọ môn và hiển lâm các là hai công trình khổng lồ, đặc sắc xinh đẹp của kiến trúc cổ truyền huế.
Ở bên trong lòng Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cẩm Thành được gọi chung là Đại Nội. Hoàng Thành sẽ dùng để bảo vệ các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng bậc nhất của triều đình và các điện thờ. Còn Tử Cẩm Thành sẽ bảo vệ nơi làm việc, ăn ở cũng như sinh hoạt hằng ngày của nhà vua và cả gia đình.
Được xây dựng từ năm 1804 – 1883, Đại Nội có bằng mặt xây dựng theo dạng hình gần vuông, với mặt trước và mặt sau là dài 622m, mặt trái và phải sẽ là 604m. Thành xung quanh được xây bằng gạch (cao 4.16m dày 1,04m), bên ngoài đã có hệ thống hộ thành hào gọi là: Kim Thủy Hồ để bảo vệ cho thành. Mỗi mặt trồ một cửa để ra vào, Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiền Nhơn (trái), Chương Đức (phải). Cửa chính của Ngọ Môn thì chỉ dành cho vua đi.
Với hơn 100 công trình kiến trúc rất đẹp, mặt bằng Đại Nội chia thành rất nhiều khu vực khác nhau:
– Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng Hoàng Gia.
– Vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn là nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa.
– Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hòa làm nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
– Triệu Miếu, Thái Miếu,Hưng Miếu, Thế Miếu và điện Phụng Tiên là nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
– Cung Diên Thọ và cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái hậu.
Thế Miếu đã được xây dựng dựa trên mặt bằng 1500m2, để thờ các vị vua Nguyễn. Phía trước Thế Miếu còn rất nhiều công trình nghệ thuật khác: Cửu Đỉnh, Hiền Lâm Các…
Tạo nên 1 lần với Thế Miếu từ 1821-1822 ( thời ông Vua Minh Mạng ) . Hiển Lâm Các tạo nên ngay trước thế miếu, trên khối nền cao hình chữ nhật từ dưới bước lên mặt nền trước sau có 9 bậc. Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ theo cách thức nhiều tầng, vai trò chính được coi như đài ký ức thấm sâu vào tâm trí công trạng các hoàng đế triều Nguyễn thờ ở Thế Miếu và các đại thần có công thờ hai bên trái Tùng Tự và Hữu Tùng Tự.
Hiển Lâm Các là công trình kiến trúc có giá trị về cả kỹ thuật lẫn thẩm mỹ, kiến trúc thanh tú hài hòa với khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp.
2.Cửu Đỉnh
Cửu Đình đặt tại sân Thế Miếu, là một loại hàng đặc sắc, tinh vi, được Bộ cung đúc tại Huế cuối năm 1835 đầu 1837 . Cửu Đỉnh thể hiện nguyện vọng về sự trường tồn vĩnh viễn của triều đình nhà Nguyễn và sự giàu đẹp của quốc gia. điều này được thể hiện rất rõ ràng trong lĩnh vực lấy tên gọi và tầm cỡ và các họa tiết chạm nổi trên Cửu Đình. Mỗi Cửu Đình có khắc một danh từ riêng bằng chữ hán, lấy từ Miếu hiệu ( tên để thờ phụng ) của một vị hoàng đế nhà Nguyễn và Cửu Đình đó được coi là biểu tượng của vị hoàng đế đó.
Cao đỉnh ( hoàng đế gia long ) ở địa điểm chính giữa, đỉnh hai bên tả phải tuần tự là : nhân Đỉnh ( quốc vương Minh Mạng ) , Chương Đỉnh ( quốc vương Thiệu Trị ) , Anh Đỉnh ( hoàng đế Tự Đức ) , Nghị Đỉnh ( hoàng đế Kiến Phúc ) , Thuần Đình ( hoàng đế Đồng Khánh ) , Tuyên Đỉnh ( quốc vương Khải Định ) , Huyền Đỉnh ( chưa biểu trưng cho ông quốc vương nào cả, dù cho triều nguyễn cón có 6 vị hoàng đế khác ).
Cung Diên Thọ là một quần thể kiến trúc cung điện qui mô nhất còn lại tại cố đô. Cung Diên Thọ bao gồm hơn 10 khối nhà được dàn dựng trong khuôn viên tường thành vây quanh hình chữ nhật rộng khoảng 100m, dài gần 150m. Khối nhà chính nằm ở giữa dành làm nơi mẹ hoàng đế nghỉ và tiếp khách. Tại đây chỉ cón cung diên thọ, điện thọ ninh, tạ trường du, am phước thọ và lầu tịnh minh. cung diên thọ được xây kể từ năm 1804 và qua nhiều lần đổi tên.
3.Tử Cấm Thành
Tham gia bằng cũng gần vuông, cao 3, 7m, mặt phía trước và sau dài 324m, mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Đại Cung Môn là cửa chính ở phía trước chỉ dành riêng cho quốc vương ra vô, ở thời điểm hiện tại đã xuống cấp triệt để. Tấm ảnh phóng lớn rộng dăng ngang sau lưng điện Cần Chánh ( nơi quốc vương làm việc hàng ngày) là chỉ dấu hiệu cho biết thế giới sau nó chỉ dành cho quốc vương và gia đình. Trong đó có rất nhiều cung nữ hàng chục hoạn quan cư trú để đáp ứng hoàng gia. trong khu vực này có gần 50 công trình vàng son huy hoàng gồm có : Điện Càn Thành ( nơi hoàng đế ở ) , điện Khôn Thái ( nơi vợ chính ông hoàng ở ) , Duyệt Thị Đường ( trung tâm văn hóa ) , Thượng Thiện ( nơi nấu thưởng thức cho hoàng đế ) , Thái Bình Lâu ( nơi quốc vương đọc sách ) , Điện Quang Minh ( nơi lưu trú các hoàng tử ) , Điện Trinh Minh ( nơi các hoàng hậu ở ) , điện Kiến Trung, vườn Cẩm Uyển …